Cuộc đời và sự nghiệp Vũ Văn Mẫu

Thân thế

Ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1914 tại làng Quất Động, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quất Động, huyện Thường Tín thuộc về thành phố Hà Nội) trong một gia đình tư sản. Nhà ông vốn có nghề thêu, sớm rời quê hương ra định cư ở Hà Nội, mở cửa hàng thêu, hiệu Phúc Thái ở 24 phố Hàng Nón. Ông là con thứ hai trong nhà, trên ông là một bà chị, dưới ông còn hai em trai và hai em gái. Cụ thân sinh không may mất sớm, mẹ ông ở vậy, một mình tần tảo nuôi sáu con ăn học nên người. Ba anh em gồm Luật sư Vũ Văn Mẫu và Tiến sĩ Lý Hóa Vũ Như Canh, dược sĩ Vũ Thị Sửu mở hiệu thuốc tây ở phố Hàng Da.

Ông thông minh, học giỏi, thi đỗ vào trường Bưởi. Sau khi đỗ Tú tài I, ông nộp đơn thi vào trường Albert Sarraut theo học lớp Toán sơ cấp (Math. Elem), năm 1934 ở tuổi 20 đỗ Bac. Math. hạng Bình thứ (mention Assez Bien), không có ai đỗ hạng Bình (mention Bien).Như mọi thanh niên thuộc gia đình danh giá thời bấy giờ, ông được gia đình đưa sang học ở Pháp và tốt nghiệp Đại học Luật khoa Paris, Pháp. Ông tiếp tục theo học tại đây cho đến khi lấy được bằng Thạc sĩ và trở về hành nghề luật tại Hà Nội.

Từ năm 1934 đến năm 1937, ông theo học Luật ở trường Luật Hà Nội. Đỗ Cử nhân Luật rồi ông thi tri huyện, được bổ làm tri huyện huyện Gia Khánh (Ninh Bình), sau chuyển đến Gia Bình (Bắc Ninh). Ông nuôi chí tiếp tục học, đăng ký học Cao học ở trường Đại học Luật, thường đạp xe về thư viện trường Luật mượn tài liệu tự học tập nghiên cứu, thi đỗ luôn hai bằng Cao học, trong đó có bằng Cao học Kinh tế. Thống sứ Bắc Kỳ thông cảm với ông tri huyện trẻ ham học, chuyển ông về làm tri huyện Đông Anh, gần Hà Nội hơn.

Vợ ông thuộc gia đình gia giáo, danh giá, là bà Hoàng Thị Nguyệt My, con gái cụ Cử Sen Hồ Hoàng Gia Luận (em trai Tổng đốc Hà đông Hoàng Trọng Phu).

Sau Cách mạng Tháng Tám ông ở nhà, âm thầm chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của giáo sư Camerlynck, năm 1948 sang Paris bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Luật; trở về nước, ông được mời làm giảng sư Luật ở trường Đại học Luật Hà Nội.

Sau đó ông về nước, tiếp tục giảng dạy ở trường Đại học Luật Hà Nội; em ông, Tiến sĩ Lý Hóa Vũ Như Canh, cũng đã rời Đại học Paris về dạy ở trường Đại học Khoa học Hà Nội từ hai năm trước.

Trưởng khoa Luật đầu tiên Đại học Sài Gòn

Năm 1954, theo hiệp định Genève (7-1954) Việt Nam bị chia cắt làm hai miền, ông di tản vào Sài Gòn, trong khi em ông, Tiến sĩ Vũ Như Canh, quyết định ở lại Hà Nội. Vào Sài Gòn, ông được bổ làm Chánh Nhất Tòa Phá Án, đồng thời tham gia giảng dạy ở khoa Luật trường Đại học Sài Gòn, làm Trưởng khoa Luật, trưởng khoa đầu tiên người Việt Nam. Ông nổi tiếng là một học giả lớn về Luật, là chuyên gia về Dân Luật và Cổ Luật, thành thạo nhiều ngoại ngữ Pháp, Anh, La Tinh, Hán, uyên thâm cả về cựu học lẫn tân học, được đồng nghiệp kính trọng, sinh viên tín nhiệm, quý mến.

Trở thành Bộ trưởng Ngoại giao

Sau khi thực hiện Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tân thổng thống Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và mời ông giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa. Ông giữ chức vụ này trong 8 năm, từ 1955 đến 1963. Trong cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, ông đã từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối.[1] Khi ông cố gắng rời Việt Nam Cộng hòa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật Ấn Độ, thì bị bắt và bị quản thúc.

Mâu thuẫn với chế độ Ngô Đình Diệm

Vốn là một nhà kỹ trị, ông hầu như đứng ngoài mọi biến động của thời cuộc bấy giờ. Tuy nhiên, là một Phật tử với pháp danh Minh Không, ông phản đối những biện pháp đàn áp khốc liệt của chính phủ Ngô Đình Diệm với Phật giáo. Ông cạo trọc đầu và sau đó từ chức Bộ trưởng ngày 22 tháng 8 năm 1963 để phản đối hành động tấn công các chùa Phật giáo của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Trở về Việt Nam

Suốt thời gian biến động miền Nam 1964-1967, ông hoàn toàn không tham gia vì công tác ở đại sứ tại nước ngoài. Mãi đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền tổng thống, ông mới được triệu hồi về nước. Ông trở thành Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Năm 1972, ông tranh cử Thượng nghị sĩ trong liên danh Hoa Sen và đắc cử.

Thủ tướng 1 ngày

Trong suốt nhiệm kỳ của mình, ông luôn hoạt động tích cực cho phong trào hòa bình và hòa giải cho dân tộc. Chính vì vậy, khi tướng Dương Văn Minh trở thành tổng thống, ông được đề cử cho chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa với mục đích tham gia thương lượng chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, ông chỉ ở trong chức vụ chỉ vỏn vẹn được một ngày thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trước sức tiến công của quân đội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông phải cùng tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu thêm nữa.

Cuộc sống cuối đời

Cũng như tướng Dương Văn Minh, nhà cầm quyền mới tuy thực hiện các biện pháp hạn chế nhưng không quá khắt khe với ông. Sau khi tình hình ổn định, họ cho phép ông được xuất cảnh sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận cuối đời. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm 1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.

Ông là một học giả lớn về luật của Việt Nam, uyên thâm cựu và tân học, biết nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Hán và là một giáo sư giảng giải luật rất hấp dẫn. Tác phẩm của ông còn được René David và John E.C Brierley trích dẫn trong cuốn sách nổi tiếng về luật so sánh Major Legal Systems in the World Today.